Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

Lịch Sử Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (United States Marine Corps) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm cung cấp lực lượng tiến công từ phía biển,[4] sử dụng phương tiện vận chuyển của Hải quân Hoa Kỳ để nhanh chóng đưa các lực lượng đặc nhiệm vũ trang hổn hợp. Nó là một trong số 7 lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ. Theo cơ cấu lãnh đạo dân sự trong Quân đội Hoa Kỳ thì Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ là một thành phần của Bộ Hải quân Hoa Kỳ,[5][6] thường hoạt động sát cánh bên các lực lượng hải quân Hoa Kỳ cho các mục đích huấn luyện, vận chuyển và tiếp vận. Tuy nhiên, theo cơ cấu lãnh đạo quân sự thì Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ là một quân chủng riêng biệt.[7]
Thuỷ Quân Lục Chiến - Một Đơn vị chủ lực trong chính sách quốc phòng

Đại úy Samuel Nicholas thành lập hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến Lục địa vào ngày 10 tháng 11 năm 1775 tạiPhiladelphia với vai trò như bộ binh hải quân.[8] Kể từ đó, sứ mệnh của Thủy quân lục chiến tiến hóa cùng với chính sách ngoại giao và học thuyết quân sự biến đổi của Hoa Kỳ. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã phục vụ trong mọi cuộc xung đột quân sự của Mỹ và được nổi bật trong thế kỷ 20 khi các lý thuyết và thực tiễn của chiến tranh đổ bộ từ biển cho thấy kết quả khả quan và sau hết đã tạo nên trụ cột tại mặt trận Thái Bình Dương trong thời Đệ nhị Thế chiến.[9]Vào giữa thế kỷ 20, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã trở thành những lý thuyết gia và chuyên gia về chiến tranh đổ bộ từ biển.[10][11][12] Khả năng của quân chủng phản ứng nhanh đối với các cuộc khủng hoảng vùng đã chứng tỏ rằng quân chủng có một vai trò mạnh trong việc triển khai và thực hiện chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ.[13]
LoGo TQLC Hoa Kỳ


Lịch Sử

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ có nguồn gốc từ Thủy quân lục chiến Lục địa của thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ do Đại úy Samuel Nicholas ở Philadelphia thành lập theo nghị quyết của Đệ nhị Quốc hội Lục địa vào ngày 10 tháng 11 năm 1775 nhằm thành lập 2tiểu đoàn thủy quân lục chiến. Ngày này được xem là ngày sinh nhật của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Vào cuối Chiến tranh Cách mạng Mỹ, cả Hải quân Lục địa và Thủy quân lục chiến Lục địa đều bị giải tán trong tháng tư năm 1783. Riêng lực lượng thủy quân lục chiến không được tái lập cho đến năm 1798. Vào năm đó, vì chuẩn bị cho cuộc chiến được gọi là Chiến tranh nửa mùa (quasi-war) với Pháp, Quốc hội Hoa Kỳ đã thành lập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.[25] Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ tuyển mộ binh sĩ vào Thủy quân lục chiến vào đầu tháng 8 năm 1797[26] để phục vụ trên các khu trục hạm nhỏ mà Quốc hội Hoa Kỳ mới cho đóng. "Đạo luật cung cấp trang bị vũ khí hải quân" ngày 18 tháng 3 năm 1794[27] cho phép các chiến hạm này có quyền tuyển mộ chi tiết bao nhiên binh sĩ thủy quân lục chiến trên mỗi tàu.
Hành động nổi tiếng của thủy quân lục chiến xảy ra trong thời kỳ này là cuộc Chiến tranh Berber lần thứ nhất (1801–1805) chống cướp biển Berber,[28] khi William Eaton và trung úy Presley O'Bannon dẫn 8 binh sĩ thủy quân lục chiến và 500 lính đánh thuê tìm cách đánh chiếm Tripoli. Mặc dù họ chỉ đến được Derna nhưng hành động của họ tại Tripoli đã trở nên bất hủ trong bài quân ca "Marines' Hymn" và thanh kiếm Mameluke mà các sĩ quan Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ mang bên người.
Trong Chiến tranh 1812, các phân đội hải quân của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã tham dự vào các trận đánh lớn tay đôi giữa hai tàu đối địch mà đã tạo nên đặc tính của cuộc chiến. Đây là những chiến thắng đầu tiên của người Mỹ trong cuộc xung đột. Công sức lớn nhất của họ là đã làm chậm bước tiến của người Anh đến Washington, D.C. trong trận Bladensburg và cầm chân tuyến phòng thủ của tướng Andrew Jackson ở trận New Orleans. Vào cuối chiến tranh, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nổi danh một cách xứng đáng như là những xạ thủ cừ khôi, đặc biệt trong các trận đánh giữa hai tàu thù địch.

Năm binh sĩ Thủy quân lục chiến Marines cùng với vị sĩ quan của họ ở Cơ xưởng Hải quân Washington năm 1864
Sau chiến tranh, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ rơi vào tình trạng yếu kém cho đến khi Archibald Henderson được bổ nhiệm làm tư lệnh thứ năm của Thủy quân lục chiến vào năm 1820. Dưới quyền của ông, Thủy quân lục chiến nhận những nhiệm vụ viễn chinh trong vùng Caribbe, vịnh Mexico, Key West, Tây Phi, Quần đảo Falkland, và Sumatra. Tham mưu trưởng Henderson có công trong việc ngăn chặn mọi nỗ lực của Tổng thống Jackson nhằm kết hợp và nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vào Lục quân Hoa Kỳ.[29]Thay vào đó, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua "Đạo luật vì tổ chức Thủy quân lục chiến tốt hơn" vào năm 1834, qui định rằng Thủy quân lục chiến là bộ phận của Bộ Hải quân Hoa Kỳ với vai trò ngang vai với Hải quân Hoa Kỳ (Bộ Hải quân Hoa Kỳ là cơ quan quản lý dân sự của cả Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Hải quân Hoa Kỳ).[30] Đây là lần đầu tiên trong nhiều lần sự tồn tại của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bị đem ra thử thách.
Tư lệnh Henderson tình nguyện đưa Thủy quân lục chiến phục vụ trong cuộc chiến tranh với các bộ tộc người da đỏ Seminole trong năm 1835. Ông đích thân dắt gần phân nữa lực lượng Thủy quân lục chiến vào trận. Một thập niên sau đó, trong cuộc Chiến tranh Mỹ-Mexico (1846–1848), Thủy quân lục chiến đã thực hiện một cuộc tấn công nổi tiếng vào Dinh Chapultepec ở Mexico Citymà sau này được ghi nhớ lại bằng câu "From The Halls of Montezuma" trong bài quân ca "Marines' hymn". Vào thập niên 1850, Thủy quân lục chiến tham gia các hoạt động tại Panama và châu Á, hộ tống Hải đoàn Đông Ấn của Matthew Calbraith Perry trong chuyến hành trình lịch sử của nó đến Viễn Đông.[31]
Vì tham chiến quá nhiều nơi ở ngoại quốc nên Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chỉ đóng một vai trò tương đối trong Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865). Nhiệm vụ nổi bật nhất của họ là phong tỏa. Khi có thêm nhiều tiểu bang ly khai khỏi phe liên bang thì khoảng phân nữa số sĩ quan Thủy quân lục chiến cũng phải rời phe liên bang để gia nhập phe liên minh miền nam và thành lập Thủy quân lục chiến Liên hiệp mà cuối cùng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong cuộc chiến.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét